Hát nhà trò có âm hưởng gần với lẩy kiều Bắc Bộ, mà nói gần hơn là hát kiều ở Nghệ - Tĩnh. Người hát thường đứng hát, vừa hát vừa làm động tác với quạt và sanh trên tay như diễn trò, nên người ta thường gọi là hát nhà trò. Người hát luôn di động bằng những bước chân ngắn theo tuyến đi hình tròn hoặc qua lại giữa hai người hát; tay cầm quạt làm nhiều động tác rất mềm dẻo, điêu luyện và đẹp mắt tựa như động tác của người hát chèo.
Hát nhà trò phổ biến nhất ở các xã Châu Hoá, Văn Hoá, mà nổi bật nhất là làng văn hoá Kinh Châu xã Châu Hoá, huyện Tuyên Hoá.
Về nội dung các bài hát nhà trò, trước đây người ta thường lấy các đoạn trích trong truyện Kiều, Phạm Công - Cúc Hoa, Thạch Sanh... hoặc nói về công đức của cha mẹ, ơn thầy. Ngày nay, khi diễn hát nhà trò, người ta đã đặt lời mới có nội dung ca ngợi Đảng, Bác Hồ, ca ngợi quê hương, đất nước, con người...
Nghiên cứu sâu và nghe kỹ hơn, ta có thể thấy được hát nhà trò có âm nhạc gần với lẩy Kiều và phảng phất chút ca trù Nghệ - Tĩnh; phần vũ điệu thì lại gần gũi với hát chèo. Có thể, đây là một trong những điệu ca được truyền khẩu vào Quảng Bình cùng thời với cuộc chiến Trịnh- Nguyễn phân tranh.
Theo nhạc sĩ Quách Mộng Lân và cố nhạc sĩ Minh Phương, là những người đã có dịp nghiên cứu hát nhà trò ở huyện Tuyên Hoá thì, hát nhà trò thường có mấy làn điệu chính và được sắp xếp theo tuần tự trình diễn như sau: nói lối-hát Bắc-hát Nam-hát Nam pha Bắc-hát luyện thần trang-hát dồn.
Lời ca trong các làn điệu hát nhà trò chủ yếu vẫn dùng thể thơ lục bát trong hát Nam và hát Bắc. Nhưng khi hát đến điệu Nam pha Bắc thì chuyển sang thể thất ngôn tứ tuyệt (mỗi khổ gồm 4 câu, mỗi câu 7 chữ).
Ví dụ: Trích đoạn điệu Nam pha Bắc:
Kìa sông Hương...
Nước chảy không sờn...
Còn thế đó...
Người đây mong mỏi...
Bát ngát để ...
Trăm đường nghìn lối...
Chữ chung tình...
Biết thuở nào nguôi...
(Tương tư nói nỏ nên lời...)
Và khi chuyển sang điệu hát dồn thì trở lại thể thơ lục bát, nhưng khi hát vào câu 6 thì lại dùng 4 từ cuối của câu, hát lên trước như để nhắc lại và nhấn mạnh nội dung câu hát; sau đó mới hát trọn cả câu 6 và câu 8 tiếp theo.
Ví dụ: Trăng sáng như gương
Trên trời trăng sáng như gương ...
Nhưng nếu chuyển từ điệu Nam pha Bắc sang điệu hát dồn thì hai điệu đầu vẫn kết cấu là:
- Điệu Nam pha Bắc: Vẫn dùng thể thất ngôn tứ tuyệt.
- Điệu hát dồn: Vẫn dùng thể lục bát.
- Hát kết thúc bài: Lại dùng thể 4 câu 8 chữ, chứ ít khi dùng thể 4 câu 7 chữ.
Ví dụ: Hát kết thúc bài theo thể 4 câu 8 chữ.
Nước nhược tiểu đánh hai phường cướp nước
Tiếng anh hùng vang dội khắp năm châu
Ơn Bác Hồ như biển rộng trời cao
Toàn xã hội cùng nhau ta tiến bước.
Về âm nhạc, chủ yếu dùng các nhạc cụ gảy và gõ, kết hợp với âm thanh từ những bộ sanh cầm trên tay người hát phát ra, hoà quyện thành một âm hưởng êm dịu, nhẹ nhàng, thánh thót và uyển chuyển, có sức quyến rũ người nghe.
Người hát nhà trò hiện còn ở các làng xã thuộc huyện Tuyên Hoá không được nhiều, vì có thể nói giai điệu của hát nhà trò có âm vực khá rộng và luyến láy nhiều nên rất khó hát. Cùng một điệu hát, cùng một lời ca nhưng hai người ở cùng một đội ca có thể hát khác nhau hoặc hai người ở hai vùng khác nhau trong huyện cũng có thể hát khác nhau. Đây là sự dị bản trong âm nhạc dân gian và cũng là hiện tượng phát triển một cách tự nhiên của âm nhạc dân gian mà có.
Hát nhà trò ở Tuyên Hóa thường được diễn xướng trong những dịp lễ hội với các lời mới phục vụ nội dung buỗi lễ. Âm nhạc và lối diễn xướng rất hấp dẫn người xem. Đây là một làn điệu cổ truyền quý cần được bảo tồn và truyền dạy lại cho các thế hệ con cháu.
Nhạc sĩ Dương Viết Chiến