Ngay khi tiếp cận Nha Nghi, Hoàng Hối Khanh đã chọn Mũi Viết, vùng đất nằm giữa hai con sông Bình Giang và Ninh Giang làm nơi đóng huyện sở. Là người có tầm nhìn xa, trông rộng, ông thấy đây là vùng đất màu mỡ nhưng còn hoang vu và có khả năng khai phá lập nghiệp lâu dài.
Với cương vị là một vị tướng thống lĩnh cả một vùng phương Nam, năm 1387, ông đã ra vùng Châu Hoan Châu và Châu Ái (Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay) chiêu mộ dân 12 dòng họ và những người phiêu tán, không có sản nghiệp theo ông vào khai canh lập ấp. Thời kỳ này đói kém xảy ra liên miên, dân chúng nhiều người phải bỏ làng đi lưu vong.
Bởi vậy, khi nghe tin đã vào điền trang làm cho ông rất đông, số dân theo đó cũng tăng lên nhanh. Với lực lượng đó, ông đã có điều kiện để đẩy mạnh công cuộc khai hoang mở rộng điền trang với quy mô ngày càng lớn, số người lên đến hàng chục ngàn và khai khẩn được 500 mẫu đất. Đất này ông chia cho 12 dòng họ, một số nông nô và tổ chức thành điền trang, bố trí cho dân định cư dọc hai bờ sông Kiến Giang, dần dần về sau tiếp tục mở rộng ra các vùng khác ở trong huyện.
Để tiện quản lý, Hoàng Hối Khanh chia điền trang ra các "kẻ" và "nhà". “Kẻ” là vùng dân cư sản xuất ngoài trời chuyên cày cấy làm ra lúa gạo tự cung, tự cấp và dự trữ lương thực phòng khi chiến tranh xảy ra. “Nhà” bao gồm các vùng dân cư làm việc trong nhà với các nghề thủ công, chuyên sản xuất những vật dụng cần thiết cho trang viên.
Những đơn vị chuyên sản xuất lương thực, thực phẩm đơn thuần đặt tên ''kẻ'' như Kẻ Tiểu (Thượng Phong), Kẻ Đợi (Đại Phong), Kẻ Tuy (Tuy Lộc), Kẻ Thá (An Xá), Kẻ Théc (Thạch Bàn), Kẻ Trìa (Tân Lệ), Kẻ Sóc (Mỹ Lộc), Kẻ Chền (Quảng Cư), Kẻ Tréo (Cổ Liễu), Kẻ Sòi (Xuân Hồi). Những đơn vị vừa làm nông nghiệp vừa làm thủ công nghiệp, sản xuất công cụ tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng gọi là ''nhà'' như Nhà Mòi (Mai Hạ) có nghề trồng bông dệt vải; Nhà Phan (Phan Xá), Nhà Vàng (Hoàng Giang) có thợ rèn đúc dao rựa, cày cuốc, gươm giáo; Nhà Ngo (Uẩn Áo) có nghề sản xuất đồ gốm, gạch...; Nhà Cai (Mai Xá) có nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa. Ông dùng chính sách khuyến nông, khuyến khích mọi người cùng làm cùng hưởng, tích trữ quân lương để đề phòng khi có chiến tranh.
Ông thường xuyên chăm lo luyện tập quân lính, khi hòa bình mọi người đều là dân, khi chiến tranh mọi người đều là lính (động vi binh, tịnh vi dân). Quyền lực của ông được tăng cường, lực lượng quân sự ở phía Nam đất nước trở nên hùng mạnh. Nhờ vậy, suốt thời gian làm Tri huyện Nha Nghi, ông luôn giữ vững được an ninh, pháp luật được bảo đảm, chặn đứng được các cuộc xâm lấn của quân Chămpa muốn đánh ra Châu Hoan, Châu Ái bằng đường bộ.
Tương truyền rằng, từ cơ sở Kẻ Tiểu ban đầu, ông đã tâu lên vua cho mở rộng toàn vùng, thành lập một số đơn vị hành chính khác. Đến nay, ở huyện Lệ Thủy, vẫn còn giữ được một số làng nghề truyền thống và vẫn còn nguyên vẹn tên làng, tên nghề thuở sơ khai (các tên làng này vẫn còn được gọi song song với trên mới, "kẻ" như Kẻ Tiểu là Thượng Phong, Kẻ Đợi là Đại Phong, Kẻ Tuy là Tuy Lộc, Kẻ Thá là An Xá, Kẻ Soi là Xuân Hồi, Kẻ Tréo là Cổ Liễu, Kẻ Chền là Quảng Cư; ''nhà'' như Nhà Mòi là Mai Hạ, Nhà Phan là Phan Xá, Nhà Vàng là Hoàng Giang, Nhà Ngo là Uẩn Áo, Nhà Cai là Mai Xá).
Hoàng Hối Khanh là vị tướng tài ba. Sau khi chinh phạt quân Chiêm Thành từ Nam ra cửa biển Đam Nhai (Nghệ An) thì bị gió to, thuyền vỡ trong khi ông đang bị quân Minh vây bắt. Biết không thể thoát, ông đã tự sát để giữ gìn khí tiết. Trương Phụ cho quân lính chặt đầu ông mang bêu ở chợ Đông Đô (Hà Nội). Tướng Đặng Tất là bạn ông bèn cướp cái xác không đầu đưa vào mai táng trên một khu đất gần núi An Mã, thuộc thôn Đại Giang, xã Trường Thủy, huyện Lệ Thủy.

Lăng mộ ngài Hoàng Hối Khanh ở xã Trường Thủy, huyện Lệ Thủy
Khuôn viên mộ hướng đông nam với diện tích 40m2, xung quanh xây bằng đá, phía hậu đầu có khắc dòng chữ “Đặc tấn phụ quốc Thượng tướng quân tăng kiệt tiết linh thông Quận công Hoàng”. Dòng bên cạnh đề bốn chữ “Kỷ Mão trọng đông”.
Sau khi đánh đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi, nhà Lê truy phong Hoàng Hối Khanh: “Tước phong Dực Bảo trung hưng linh phò đoan túc tôn thần”. Đến thời nhà Nguyễn, năm Thiệu Trị thứ 4 (1845) lại truy phong: “Đặc tấn phụ quốc, Thượng tướng quân tăng kiệt tiết linh thông Hoàng quận công tước phong Dực bảo trung hưng linh phò đoan túc tôn thần”.

Đền thờ Hoàng Hối Khanh tại thôn Thượng Phong, xã Phong Thuỷ
Để tưởng nhớ người có công lao mở cõi đất Nha Nghi – Lệ Thủy, năm 2002 dân làng Thượng Phong (tức làng Kẻ Tiểu khi xưa) đã lập đền thờ ông tại quê nhà bên hữu ngạn sông Kiến Giang, thuộc địa phận xóm 2, làng Thượng Phong (xưa kia, đền thờ cũ của ông nằm ở Trung tâm chính trị huyện hiện nay và đã bị giặc Pháp đốt trụi năm 1947). Hàng năm, cứ đến ngày mồng 5 và mồng 6 tháng 6 (âm lịch), dân làng tổ chức tế lễ cung kính, long trọng và đã thành lệ làng gọi là: "Cộ Ngài khai khẩn", vừa để tưởng nhớ đến ngài, ôn lại truyền thống quê hương, vừa là để dân làng vào hội với các nghi lễ, trò chơi dân gian mang đậm màu sắc địa phương.