Đền Truy Viễn Đường được xây dựng dưới thời vua Lê Trung Hưng, tọa lạc tại xã Quảng Lộc, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Đền Truy Viễn Đường mang dáng vẻ cổ xưa với những nét kiến trúc độc đáo, những họa tiết trang trí tinh xảo như: Lân, Quy, hoa, lá,… toát lên sự cung kính tôn nghiêm. Không chỉ là di tích lịch sử, đây còn là địa điểm tâm linh, nơi tổ chức dâng hương, thờ cúng, nơi tưởng nhớ vị thành hoàng làng, nơi bảo tồn bản sắc văn hóa quý báu của địa phương và vùng nam sông Gianh. Với những giá trị ý nghĩa to lớn đang được bảo tồn, Đình Đền Truy Viễn Đường được Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia.
Đền Truy Viễn Đường là nơi lưu niệm thành hoàng làng là Nguyễn Khắc Minh (người khai sinh ra dòng họ, người có công khai phá vùng đất lưu vực sông Gianh trong thời Trịnh - Nguyễn phân tranh) và truyền thống văn võ song toàn của dòng họ Nguyễn Khắc ở thôn Vĩnh Phước.
Danh tướng Nguyễn Khắc Minh sinh vào đầu thế kỷ XVII (1613) trong thời kỳ lịch sử nước ta có nhiều biến cố lớn. Năm 1558, Trịnh Kiểm tâu lên vua cho Nguyễn Hoàng vào trấn thủ vùng đất Thuận Hóa. Từ đó, bên cạnh cục diện Nam - Bắc triều (Lê và Mạc) lại hình thành nên cục diện Đàng Trong - Đàng Ngoài. Hoàn cảnh lịch sử đó ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc đời và sự nghiệp của danh tướng Nguyễn Khắc Minh.
Nguyễn Khắc Minh sinh trưởng trong một gia đình của dòng họ Nguyễn Thái Bảo, một dòng họ khoa bảng có lịch sử phát triển trên 500 năm, ở thôn Hoa Kinh, xã Nhân Mục, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, thuộc trấn Sơn Nam thượng (nay là xã Nhân Chính, huyện Từ Liêm, Hà Nội). Làng Nhân Mục là nơi ’’Địa linh nhân kiệt’’, dòng họ Nguyễn Thái Bảo lại phát triển trong một giai đoạn lịch sử sôi động của dân tộc qua các thế kỷ 16 - 19, đó là thời điểm khó khăn phải đương đầu và cũng là thời cơ để dòng họ lập công với nước.
Cụ Thuỷ tổ họ Nguyễn Thái Bảo huý Nguyễn Khắc Uẩn (1474 - 1554) là cố nội Nguyễn Khắc Minh. Ông được vua Lê phong ’’Thái Bảo Đặc Tiến Phụ Quốc Thượng Tướng Quân, Thượng Trụ Quốc’’ (tước Thái Bảo nằm trong tam công: Thái sư Thái phó, Thái bảo, ngang hàng với nhất phẩm triều đình). Cụ Thuỷ tổ sinh được hai người con trai, con trưởng hiệu Phúc Đại Lập nên ngành trưởng ở Hoa Kinh; con thứ là Nguyễn Khắc Trung, sinh năm 1524. Ông trước thi đậu giải nguyên, tiếp tục thi đậu tiến sĩ tại đời nhà Lê. Nguyễn Khắc Trung là người đỗ tiến sĩ đầu tiên ở xã Nhân Mục. Ông làm quan đến chức Thừa sứ. Ông mất năm Nhâm Dần (1602).
Con trai Nguyễn Khắc Trung là Nguyễn Khắc Tuấn, thi đậu cử nhân năm 21 tuổi (1583). Năm 30 tuổi (1592) ông được bổ làm Tri huyện huyện Xương Đức. Ông đỗ tiến sĩ khoa thi Quý Sửu (1613) làm quan dưới hai triều Thành tổ và Văn tổ (tức Trịnh Tùng và Trịnh Tráng) đời nhà Lê. Ông có công đi sứ Tàu (1620),và giúp đỡ nhân dân trong nước. Ông làm quan đến chức Thị lang, phong tước Lai Quận Công.
Nguyễn Khắc Minh sinh năm cuối năm Nhâm Tý tức đầu năm dương lịch 1613, là con trai thứ ba của ông Nguyễn Khắc Tuấn và bà vợ thứ ba là Nguyễn Thị Chuẩn người làng Thị Lệ, Châu Bố Chính. Nguyễn Khắc Minh ở với mẹ tại quê ngoại, lập ra chi họ Nguyễn Khắc ở Quảng Bình từ đầu thế kỷ XVII. Như vậy, trong quá trình phát triển họ Nguyễn Thái Bảo từ thôn gốc Hoa Kinh, sang thế kỷ XVII phát triển một chi họ mới ở thôn Vĩnh An, xã Thị Lệ, Châu Bố Chính (nay là thôn Vĩnh Phước, xã Quảng Lộc, huyện Quảng Trạch).
Truy Viễn Đường được xây dựng vào năm 1681, dưới thời vua Lê Trung Hưng. Đền là nơi thờ thành hoàng Nguyễn Khắc Minh, người có công khai phá vùng đất này trong thời Trịnh - Nguyễn phân tranh. Đến giai đoạn chống Pháp, đền Truy Viễn là nơi dấy binh khởi nghĩa dưới chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi. Trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, đây là nơi cất giấu vũ khí của quân và dân để tiếp vận trận địa phòng không.
Nhà thơ Nguyễn Ngọc Khương, một người con của mảnh đất Vĩnh Phước đã có bài thơ Truy Viễn đường để ca ngời vẻ đẹp:
Bốn trăm năm trầm mặc rêu phong
Gạch ngói vỡ đau ngôi đền cổ
Bao triều đại xoay vần, hưng phế
“Truy viễn đường” trơ với nước non
Kẻ nịnh thần gieo hận hoàng cung
Sông cuộn sóng thanh gươm buốt máu
Ngôi mộ cổ lung linh kì báu
Sắc phong ngàn dâu bể còn nguyên
Hương vân vi hùng khí địa linh
Thành Lạc về, sao băng huyền thoại
Bao ẩn tích cựa mình bùng dậy
Bước voi thần rậm rịch thời gian
Bốn trăm năm bao nỗi hợp tan
Bóng tre ngà ấp ngôi đền cổ
Dòng Hòa giang ru người trong mộ
Hàng dừa xanh mát rượi làng quê
Cung đàn xưa như vẫn đê mê
Câu tế cũ ngất ngư ngày giỗ
Tiếng trống vọng hồn thiêng tiên tổ
Hương khói trầm thoáng vó ngựa bay
Nguồn: Tổng hợp